Bản tin thuế số 01 tháng 01 năm 2020

01/20/2020 09:51:09 AM
Hội Tư vấn thuế Việt Nam trân trọng gửi tới Quý bạn đọc bản tin thuế số 01 tháng 01 năm 2020

1. Công văn số 5375/TCT-CS ngày 20/12/2019 về thuế GTGT

Trường hợp Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ hạt nhân và ứng phó sự cố (sau đây gọi là Trung tâm) được giao chủ trì thực hiện Dự án nghiên cứu phối hợp mã số J02012 và J02005, kinh phí thực hiện các dự án này do Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế tài trợ thông qua Hợp đồng nghiên cứu số 22322 và 22212, tài khoản nhận tiền tài trợ là tài khoản của Trung tâm, Trung tâm thực hiện Dự án để phục vụ một số mục đích nghiên cứu của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế thì:

- Trường hợp thực hiện các nội dung dự án nghiên cứu số J02012 và J02005 cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài và tiêu dùng ngoài Việt Nam theo quy định của pháp luật thì thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% nếu đáp ứng điều kiện theo quy định tại Tiết b Khoản 2 Điều 9 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính.

- Trường hợp thực hiện các nội dung dự án nghiên cứu số J02012 và J02005 nêu trên tiêu dùng tại Việt Nam thì thuộc đối tượng chịu thuế suất thuế GTGT 10% theo quy định tại Điều 11 Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính.

Khi nhận tiền tài trợ, Trung tâm phải lập hóa đơn, giao cho Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế và kê khai, tính thuế GTGT theo quy định.

2. Công văn số 5393/TCT-CS ngày 20/12/2019 về chính sách miễn giảm tiền thuê đất đối với dự án xã hội hóa

Theo quyết định số 4327/QĐ-UBND ngày 10/11/2011 của UBND huyện Đông Anh về việc duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất thì khu đất để thực hiện Dự án xây dựng Trường trung học cơ sở của Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng Việt Nam có nguồn gốc từ kết quả trúng đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư theo quy định của pháp luật về đấu thầu.

Vì vậy trường hợp Dự án xây dựng Trường THCS của Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng Việt Nam được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về đấu thầu nếu Công ty đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của Chính phủ về khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường thì được xem xét miễn tiền thuê đất theo quy định tại Nghị định số 69/2008/NĐ-CP, Nghị định số 59/2014/NĐ-CP.

3. Công văn số 5394/TCT-CS ngày 20/12/2019 về việc giải đáp vướng mắc chính sách thu lệ phí trước bạ

Theo trình bày của Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh tại công văn số 11283/CT-QLĐ ngày 04/10/2019 và hồ sơ gửi kèm theo thì ông Nguyễn Phước Hảo và bà Đỗ Thị Thái Hòa thế chấp tài sản là xe Ô tô STARBUS, biển kiểm soát 51B-043-92, tên chủ xe ông Nguyễn Phước Hảo tại Ngân hàng TMCP Phương Đông, Ngân hàng TMCP Phương Đông thu giữ tài sản đảm bảo này theo Quyết định số 354/QĐ-OCB ngày 11/4/2019 và bán khoản nợ của ông Nhuyễn Phước Hảo và bà Đỗ Thị Thái Hòa cho ông Phùng Hữu Thành theo Hợp đồng mua bán nợ số 245A/2019 và Thông báo số 1023A/2019/TB-OCB ngày 03/6/2019; ông Phùng Hữu Thành bán tài sản đảm bảo là xe Ô tô nêu trên cho ông Văn Cảnh Tú theo Biên bản đấu giá tài sản số 17/BBĐG-2019, Hợp đồng mua bán đấu giá ngày 13/8/2019.

Theo pháp luật về mua, bán nợ của tổ chức tín dụng hiện hành thì ông Phùng Hữu Thành mua khoản nợ của ông Nguyễn Phước Hảo và bà Đỗ Thị Thái Hòa với Ngân hàng TMCP Phương Đông (tài sản thế chấp là xe Ô tô nêu trên), không mua tài sản là xe Ô tô.

Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp ông Phùng Hữu Thành bán tài sản đảm bảo là xe Ô tô nêu trên cho ông Văn Cảnh Tú theo Biên bản đấu giá tài sản số 17/BBĐG-2019, Hợp đồng mua bán đấu giá ngày 13/8/2019 theo đúng quy định của pháp luật, khi ông Văn Cảnh Tú đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản là xe Ô tô trúng đấu giá nêu trên thì ông Văn Cảnh Tú phải kê khai, nộp lệ phí trước bạ theo quy định, ông Phùng Hữu Thành không đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng xe Ô tô nêu trên nên không phải là người phải nộp lệ phí trước bạ.

4. Công văn số 5458/TCT-DNL ngày 24/12/2019 về thuế TNCN khi xử lý TSBĐ theo Nghị quyết số 42/2017/QH14

Trên cơ sở nội dung văn bản số 106/TB-VPCP ngày 22/3/2019 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình tại cuộc họp nghe báo cáo khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, Bộ Tài chính có công văn số 5477/BTC-TCT ngày 14/5/2019 gửi Ngân hàng Nhà nước về thu thuế thu nhập cá nhân theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 với nội dung:

“Căn cứ Luật Quản lý thuế, các Luật thuế và Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, về nguyên tắc khi các cá nhân hoặc tổ chức chuyển nhượng tài sản có phát sinh nghĩa vụ thuế thì phải có trách nhiệm nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện theo chế độ quy định và quán triệt các tổ chức tín dụng thỏa thuận đối với các bên liên quan về cách thức thanh toán các khoản thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm theo nội dung Thông báo số 106/TB-VPCP ngày 22/3/2019 của Văn phòng Chính phủ.”

Ngân hàng Nhà nước có công văn số 4732/NHNN-PC ngày 21/6/2019 về tăng cường hiệu quả công tác xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại tổ chức tín dụng với nội dung hướng dẫn:

“…Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề nghị các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nghiên cứu phương án xử lý, chủ động thỏa thuận với các bên về cách thức thanh toán các khoản thuế, phí liên quan trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để xử lý vướng mắc này theo quy định pháp luật về thuế và quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14”

Căn cứ hướng dẫn tại các văn bản nêu trên, khi xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản của khoản nợ xấu thì các cá nhân, tổ chức chuyển nhượng tài sản có phát sinh nghĩa vụ thuế thì phải có trách nhiệm nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước. Do đó, đề nghị Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Chi nhánh Bắc Ninh chủ động thỏa thuận với các bên trên mềm (bên vay nợ) về cách thức thanh toán thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản.

5. Công văn số 5466/TCT-KK ngày 24/12/2019 về vướng mắc đối với hàng hóa đặt doanh nghiệp chế xuất gia công

Trường hợp doanh nghiệp nội địa nhập khẩu nguyên liệu, vật tư để gia công cho thương nhân nước ngoài, sau đó Công ty giao toàn bộ cho doanh nghiệp chế xuất gia công và nhận lại thành phẩm để xuất khẩu hoặc bán thành phẩm để gia công tiếp rồi xuất khẩu thì nguyên vật liệu, vật tư doanh nghiệp nội địa chuyển giao cho doanh nghiệp chế xuất để gia công không phát sinh nghiệp vụ kinh doanh, mua bán hàng hóa nên không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng. Doanh thu hoạt động gia công của doanh nghiệp chế xuất cung cấp cho doanh nghiệp nội địa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT với mức thuế suất 10% theo quy định. Doanh nghiệp chế xuất khi phát sinh hoạt động gia công cho doanh nghiệp nội địa phải mở sổ kế toán để hạch toán riêng doanh thu, chi phí liên quan đến hoạt động gia công tại Việt Nam và phát hành hóa đơn giao cho doanh nghiệp nội địa theo quy định.

6. Công văn số 5484/TCT-KK ngày 25/12/2019 về việc xử lý phạt vi phạm hành chính

Trường hợp Công ty TNHH B.O.P hạch toán chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp của những hóa đơn có giá trị dưới 20 triệu đồng, đã được thanh toán bằng tiền mặt, nhưng mua nhiều lần trong cùng một ngày của một nhà cung cấp có tổng giá trị từ 20 triệu đồng trở lên, là hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 129/2013/NĐ-CP; Không thuộc trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính về thuế.

7. Công văn số 5485/TCT-KK ngày 25/12/2019 về việc nộp lệ phí trước bạ đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài không có Giấy chứng minh nhân dân

Trường hợp người Việt Nam định cư tại nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Đất đai và Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP, trong quá trình nộp lệ phí trước bạ nhà đất nếu người nộp thuế chưa có mã số thuế thì cơ quan thuế căn cứ thông tin cá nhân tại hồ sơ cấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định tại Điều 7 Thông tư số 95/2016/TT-BTC (căn cứ theo Giấy chứng minh thư nhân dân; thẻ căn cước công dân hoặc hộ chiếu (chọn quốc tịch theo quốc gia cấp hộ chiếm) để cấp mã số thuế cho người nộp thuế.