Bản tin thuế số 04 tháng 03 năm 2019

03/22/2019 05:04:47 PM
Hội Tư vấn thuế Việt Nam trân trọng gửi tới Quý bạn đọc bản tin thuế số 04 tháng 03 năm 2019

1. Công văn số 855/TCT-HTQT ngày 15/03/2019 về việc áp dụng Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đối với cá nhân (bao gồm Trưởng đại diện và nhân viên người nước ngoài) làm việc ở Văn phòng đại diện tại Việt Nam

Thu nhập của cá nhân người nước ngoài từ công việc làm công tại Văn phòng đại diện sẽ chỉ chịu thuế TNCN tại nước ngoài (được miễn thuế TNCN tại Việt Nam) nếu cả 3 điều kiện a, b và c nêu trên đồng thời được thỏa mãn.

- Đối với điều kiện (a): nếu cá nhân là người nước ngoài có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày trong giai đoạn 12 tháng bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tính thuế sẽ thỏa mãn điều kiện này.

- Đối với điều kiện (b): Đối với trường hợp cá nhân ký hợp đồng lao động trực tiếp với Công ty mẹ tại nước ngoài và được công ty nước ngoài bổ nhiệm làm việc tại Việt Nam, cá nhân phải thực hiện các công việc phục vụ cho hoạt động của VPĐD. VPĐD phải chịu trách nhiệm, chịu rủi ro đối với công việc của các cá nhân trong quá trình hoạt động, có quyền đối với sản phẩm và dịch vụ do cá nhân tạo ra, chịu trách nhiệm phương tiện làm việc, về địa điểm làm việc và tiền công tiền lương của cá nhân có do Văn phòng tại Việt Nam chi trả. Do đó, Văn phòng đại diện được coi là chủ lao động thực sự của cá nhân nêu trên.

- Đối với điều kiện (c): Trường hợp VPĐD tham gia thực hiện các hoạt động trong chuỗi kinh doanh của Công ty nước ngoài. Các hoạt động không còn mang tính chất chuẩn bị và phụ trợ mà là các hoạt động góp phần tạo ra lợi nhuận cho Công ty nước ngoài như đám phán, ký kết hợp đồng, tiếp thị, quảng cáo, hỗ trợ hoạt động bán hàng, cung cấp dịch vụ, hậu mãi... Trong những trường hợp này, Công ty nước ngoài đã hình thành cơ sở thường trú (CSTT) tại Việt Nam thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh, do đó, cá nhân làm việc cho VPĐD như vậy sẽ không thỏa mãn được điều kiện (c) nêu trên.

Nếu cả 3 điều kiện nêu trên đồng thời không được thỏa mãn, cá nhân phải kê khai và nộp thuế TNCN tại Việt Nam theo qui định của Luật thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn hiện hành.

2. Công văn số 891/TCT-CS ngày 18/3/2019 về chính sách thu thuế đất

Luật đất đai năm 2013 chỉ có quy định về không thu nghĩa vụ tài chính về tiền sử dụng đất đối với trường hợp xin cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo số liệu đo đạc thực tế mà có sự chênh lệch diện tích giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên Giấy chứng nhận đã cấp nhưng ranh giới thửa đất đang sử dụng không thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề. Việc áp dụng Khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai 2013 đối với nghĩa vụ về tiền thuê đất là không đúng về căn cứ pháp lý.

Đối với trường hợp của Công ty cổ phần Trung Hưng, theo báo cáo của Công ty, đối với phần diện tích nằm trong ranh giới thửa đất đã được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp Giấy chứng nhận, diện tích thực tế tăng 2.904m2 so với diện tích ghi trong Giấy chứng nhận là do sai sót khi đo vẽ và do khi giao đất có sự chênh lệch giữa bản đồ đo vẽ và mốc ranh giới thực địa. Vì vậy, đề nghị Cục Thuế tỉnh Phú Thọ báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ giao Sở Tài nguyên và Môi trường rà soát lại ranh giới thửa đất đang sử dụng có sự thay đổi so với ranh giới thửa đất theo Giấy chứng nhận không để làm áp dụng quy định cho phù hợp.

3. Công văn số 893/TCT-CS ngày 18/3/2019 về hóa đơn, chính sách thuế khoản thu duy tu hạ tầng khu nông nghiệp công nghệ cao

Kể từ ngày 1/1/2017 khoản thu tiền duy tu, tái tạo cơ sở hạ tầng từ các doanh nghiệp trong KCN, KCX không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội XIII mà chuyển sang cơ chế giá theo quy định pháp luật và thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế.

Do đó, kể từ ngày 01/01/2017, khi phát sinh khoản thu duy tu, bảo dưỡng hạ tầng, Trung tâm Khai thác hạ tầng (Ban Quản lý Khu nông nghiệp Công nghệ cao TP.HCM) sử dụng hóa đơn, thực hiện tính, kê khai, nộp thuế GTGT và thuế TNDN theo quy định pháp luật.

4. Công văn số 896/TCT-CS ngày 18/03/2019 về việc áp dụng ưu đãi thuế đối với dự án đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ

Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã quy định cụ thể các trường hợp được chuyển tiếp ưu đãi, không có quy định trường hợp chuyển tiếp ưu đãi đối với các dự án đã thực hiện trước 01/01/2015 thuộc lĩnh vực ưu đãi mới được bổ sung tại Luật số 71/2014/QH13 miễn thuế đối với thu nhập từ chế biến nông sản tại địa bàn khuyến khích đầu tư; ưu đãi cho dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; dự án có quy mô đầu tư tối thiểu 12.000 tỷ đồng; ưu đãi cho thu nhập của doanh nghiệp trồng trọt, chăn nuôi, chế biến không thuộc địa bàn khuyến khích đầu tư). Do vậy, đối với các dự án đầu tư mở rộng thực hiện tại khu công nghiệp trong giai đoạn 2009 - 2013 thì không thuộc đối tượng được chuyển tiếp hưởng ưu đãi theo diện điều kiện sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho thời gian còn lại.

5. Công văn số 903/TCT-CS ngày 18/03/2019 về chính sách thuế nhà thầu

Theo báo cáo của Cục Thuế tỉnh Bắc Giang tại công văn số 4954/CT-Tr thì theo hợp đồng giao gia công, các Công ty giao gia công (Công ty Arion Technology, Công ty Handan - Hàn Quốc) chuyển tiền phí bản quyền cho Công ty TNHH Lian Tech để trả hộ cho các Công ty sở hữu bản quyền ở nước ngoài (Công ty Lian Arion - Trung Quốc, Công ty HRC, Công ty Zigo - Cộng hòa Seychelles) và không nằm trong đơn giá gia công nên đây chỉ là khoản thu hộ, chi hộ của Công ty TNHH Lian Tech; Giữa các công ty sở hữu bản quyền ở nước ngoài và Công Lian Tech không có bất kỳ hợp đồng nào liên quan đến việc cung cấp bản quyền để sản xuất sản phẩm đầu thu kỹ thuật số; Công ty TNHH Lian Tech chỉ là bên nhận gia công hàng hóa (lắp ráp, gia công đầu thu kỹ thuật số) và nhận tiền công gia công theo hợp đồng gia công.

Đề nghị Cục Thuế tỉnh Bắc Giang kiểm tra cụ thể hợp đồng, hồ sơ, chứng từ, sổ sách kế toán để xác định: Nếu khoản thu nhập mà các công ty sở hữu bản quyền ở nước ngoài nhận được là phát sinh tại Hàn Quốc thì các công ty sở hữu bản quyền ở nước ngoài không thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư số 103/2014/TT-BTC; nếu khoản thu nhập mà các Công ty sở hữu bản quyền ở nước ngoài nhận được là phát sinh tại Việt Nam thì các công ty sở hữu bản quyền ở nước ngoài thuộc đối tượng của Thông tư số 103/2014/TT-BTC nêu trên.