Bản tin thuế số 04 tháng 12 năm 2017

06/05/2018 09:06:30 AM

 

I. Công văn

 

1. Công văn số 5751/TCT-CS ngày 15/12/2017 về  thuế tài nguyên đối với cát nạo vét luồng cảng biển

 

Việc miễn thuế tài nguyên áp dụng đối với đất do tổ chức, cá nhân được giao, được thuê khai thác và sử dụng tại chỗ trên diện tích đất được giao, được thuê. Vì vậy, trường hợp Công ty TNHH MTV Hào Hưng Quảng Ngãi, năm 2014 được UBND tỉnh Quảng Ngãi cho thuê đất để xây dựng bến chuyên phục dùng sử dụng chung Khu Kinh tê Dung Quất, phê duyệt khối lượng nạo vét cát nhiễm mặn tại dự án luồng vào cảng chuyên dùng Khu kinh tế Dung Quất để làm vật liệu san lấp mặt bằng bến cảng thì phải khai, nộp thuế tài nguyên đối với sản lượng cát thu được từ hoạt động nạo vét luồng vào cảng dùng để san lấp bến cảng theo quy định.

 

2. Công văn số 5755/TCT-CS ngày 15/12/2016 về xác định thời gian miễn, giảm tiền thuê đất

 

Trường hợp các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng được miễn, giảm tiền thuê đất nhưng người được Nhà nước cho thuê đất chậm làm thủ tục miễn, giảm tiền thuê đất thì khoảng thời gian chậm làm thử tục không được miễn, giảm tiền thuê đất. Trường hợp khi nộp hồ sơ xin miễn, giảm tiền thuê đất đã hết thời gian được miễn, giảm thì người được Nhà nước cho thuê đất không được xét miễn, giảm tiền thuê đất; nếu đang trong thời gian được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định thì chỉ được miễn, giảm tiền thuê đất cho thời gian ưu đãi còn lại tính từ thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ xin miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định tại  Thông tư số 77/20 14/TT-BTC, Thông tư số 333/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính.

 

3. Công văn số 5777/TCT-DNL ngày 18/12/2017 về hướng dẫn về việc xác định thuế GTGT đối với hợp đồng kinh doanh dịch vụ Roaming (chuyển vùng) quốc tế

 

Trường hợp hợp đồng cung cấp dịch vụ chuyển vùng quốc tế giữa VNPT-I với đối tác NTT Docomo-japan có điều khoản đối tác cam kết trả cho VNPT-I mức tiền tối thiểu trong trường hợp lưu lượng thực tế thực hiện của đối tác NTT Docomo-japan kết nối vào mạng viễn thông của VNPT thấp hơn so với lưu lượng tính theo bình quân cam kết (do nhu cầu thực tế thấp) thì khoản chênh lệch giữa mức tiền tối thiểu theo cam kết và giá trị dịch vụ thực tế cung cấp mà VNPT-I nhận được là khoản thu tài chính khác. VNPT-I không phải khai, tính nộp thuế GTGT đối với phần thu nhập này.

 

4. Công văn số 5791/TCT-KK ngày 19/12/2017 về hoàn thuế GTGT

 

Việc Công ty TNHH Econet Oy xuất hóa đơn đầu ra, kê khai thuế GTGT đâu ra tại thời điểm tháng 8/2014 (dự án hoàn thành, nghiệm thu), kê khai thuế GTGT đầu vào từ tháng 9/2014 đến tháng 2/2016 (sau thời điểm dự án hoàn thành, nghiệm thu) và đề nghị hoàn thuế kiêm bù trừ là không đúng với hoạt động kinh tế phát sinh, làm tăng chi hoàn thuế giá trị gia tăng từ ngân sách Trung ương, tăng thu ngân sách địa phương và ảnh hưởng đến điều hành ngân sách nhà nước.

 

Để đảm bảo đúng hoạt động kinh tế phát sinh, đảm bảo việc chi hoàn thuế giá trị gia tăng đúng quy định của Luật Ngân sách, Luật quản lý thuế thì số thuế GTGT đầu vào của Công ty TNHH Econet Oy (nhà thầu chính) phải kê khai phù hợp với thời điểm ghi nhận doanh thu của các nhà thầu phụ theo quy định về thuế GTGT. Vì vậy, đề nghị Cục Thuế tỉnh Nghệ An hướng dẫn Công ty TNHH Econet Oy thực hiện điều chỉnh kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào tại các kỳ tương ứng để bù trừ nghĩa vụ thuế đầu ra với thuế GTGT đầu vào trước khi giải quyết hoàn thuế.

 

5. Công văn 5803/TCT-KK ngày 20/12/2017 về kiến nghị giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng

 

Ngày 05/12/2017, Cục Thuế tỉnh Bắc Ninh có Thông báo số 4967/TB-CT về việc không được hoàn thuế, số tiền không được hoàn 236.150.069 đồng. Do kỳ đề nghị hoàn thuế Công ty không hoạt động sản xuất kinh doanh do các cổ đông của Công ty đang tranh chấp tại Tòa nhưng Công ty có phát sinh thuế GTGT hàng hóa, dịch vụ mua vào không trực tiếp liên quan đến sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (các chi phí như điện, nước, xăng dầu, văn phòng phẩm. . .) nên Công ty không được xem xét hoàn thuế theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính.

 

Do vậy, trường hợp Công ty cổ phần PPI không đồng ý với Thông báo số 4967/TB-CT ngày 05/12/2017 của Cục Thuế tỉnh Bắc Ninh về việc không được hoàn thuế thì được quyền thực hiện thủ tục khiếu nại đối với quyết định hành chính theo trình tự được quy định tại Điều 7; thẩm quyền giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 20 và Điều 22 của Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11/11/2011.

 

6. Công văn số 5817/TCT-KK ngày 20/12/2017 về bù trừ thuế GTGT của dự án đầu tư

 

Số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư kê khai trên Tờ khai 02/GTGT được chuyển sang Tờ khai 01/GTGT để bù trừ với số phải nộp bao gồm số thuế tại chỉ tiêu 21 (thuế GTGT chưa được hoàn kỳ trước chuyển sang) và số thuế tại chỉ tiêu 28 (tổng số thuế GTGT đầu vào của hàng hóa dịch vụ mua vào) của Tờ khai 02/GTGT, nhưng không vượt quá số thuế tại chỉ tiêu 40 (thuế GTGT còn phải nộp trong kỳ) của Tờ khai 01/GTGT.

 

Vì vậy, Tổng cục Thuế đồng ý với đề xuất của Cục Thuế thành phố Hà Nội tại công văn số 69018/CT-KK&KTT như sau: Đơn vị được bù trừ số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư chưa được hoàn kỳ trước chuyển sang trên Tờ khai 02/GTGT với số thuế GTGT phải nộp của hoạt động sản xuất kinh doanh trên Tờ khai 01/GTGT cùng kỳ.

 

7. Công văn số 5821/TCT- DNL ngày 20/12/2017 hướng dẫn vướng mắc về việc xuất hóa đơn ghi sai sót thông tin người bán

 

Theo nội dung công văn số 2339/TCT-DNL ngày 30/05/2017 của Tổng cục Thuế, từ ngày 01/06/2016 trở đi toàn bộ hóa đơn đầu ra của Ngân hàng TMCP Á Châu được thống nhất ghi theo thông tin của Hội sở chính (mã số thuế, địa chỉ, con dấu . . .). Thực tế khi triển khai, Ngân hàng TMCP Á Châu đã xuất hóa đơn cho khách hàng ghi thông tin của Chi nhánh, thông tin của Hội sở chính nhưng đóng dấu chi nhánh. Tuy nhiên các sai sót trên không làm tăng giảm số thuế GTGT phải nộp, số thuế GTGT còn được khấu trừ.

 

Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Ngân hàng, sau khi báo cáo và được sự đồng ý của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đồng ý: Trường hợp, các hóa đơn Ngân hàng TMCP Á Châu đã xuất cho khách hàng có các sai sót về thông tin của Ngân hàng TMCP Á Châu nhưng không làm tăng giảm số thuế GTGT phải nộp, số thuế GTGT còn được khấu trừ thì khách hàng được khai, khấu trừ, nộp thuế GTGT theo quy định. Ngân hàng TMCP Á Châu và khách hàng lập biên bản điều chỉnh nội dung đã ghi sai và không phải lập hóa đơn điều chỉnh.

 

II. Nghị định

 

Ngày 15/12/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 146/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2016/NĐ-CP và Nghị định số 12/2015/NĐ-CP.

 

Cụ thể:

 

1. Sửa quy định tại khoản 11, Điều 3 NĐ 109/2013 về thuế GTGT đối với Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản khai thác, được áp dụng thuế GTGT 0% gồm các trường hợp:

 

- Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản do cơ sở kinh doanh trực tiếp khai thác và chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu (quy trình chế biến khép kín hoặc thành lập phân xưởng, nhà máy chế biến theo từng công đoạn) thì sản phẩm xuất khẩu này thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 12 Luật thuế giá trị gia tăng.

 

- Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản do cơ sở kinh doanh mua về chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu (quy trình chế biến khép kín hoặc thành lập phân xưởng, nhà máy chế biến theo từng công đoạn) thì sản phẩm xuất khẩu này thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 12 Luật thuế giá trị gia tăng.

 

- Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ nguyên liệu chính không phải là tài nguyên, khoáng sản (tài nguyên, khoáng sản đã chế biến thành sản phẩm khác) do cơ sở kinh doanh mua về chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến thành sản phẩm xuất khẩu thì sản phẩm xuất khẩu này thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 12 Luật thuế giá trị gia tăng.

 

2. Sửa khoản 2 Điều 9 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP về thuế TNDN. Theo đó, nâng mức chi được hạch toán chi phí khi tính thuế TNDN để trích nộp quỹ hưu trí tự nguyện, mua bảo hiểm hưu trí tự nguyện, bảo hiểm nhân thọ cho người lao động; phần vượt mức quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế để trích nộp các quỹ có tính chất an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí bổ sung bắt buộc), quỹ bảo hiểm y tế và quỹ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động; từ mức 1 triệu đồng lên 3 triệu đồng/người/tháng.

 

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2018.