Góp ý vào dự thảo Luật Quản lý thuế, ông Phan Vũ Hoàng, Phó chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, Phó tổng giám đốc Tư vấn Thuế, Deloitte Việt Nam cho biết, Điều 26 Dự thảo Luật (gộp điều 89 - 93 trong Luật hiện hành) về hóa đơn điện tử, mục 4c có nêu “Hóa đơn điện tử phải được lập đúng thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định, trừ các trường hợp đặc thù do Chính phủ quy định”.
Tuy nhiên, theo ông Hoàng, việc yêu cầu lập hóa đơn đúng thời điểm phát sinh trên thực tế sẽ tạo ra nhiều khó khăn cũng như chi phí cho toàn xã hội, đặc biệt là với các doanh nghiệp phát sinh khối lượng giao dịch lớn, có thể lên tới hàng triệu giao dịch hàng tháng.
Các quy định tại điểm b khoản 6 Điều 1 Nghị định số 70/2025/NĐ-CP và Điều 6 Thông tư 32/2025/TT-BTC có nêu trường hợp đặc thù là giao dịch số lượng lớn, phát sinh thường xuyên cần thời gian đối soát. Tuy nhiên, theo ông Hoàng các trường hợp này rất hạn chế. Hơn nữa, nhiều trường hợp không được quy định trong Nghị định và Thông tư dù có đặc thù như các trường hợp đã nêu.
Ông Hoàng dẫn chứng như dịch vụ thương mại điện tử, hoặc kinh doanh vận tải bằng xe taxi đối với khách hàng doanh nghiệp được áp dụng theo kỳ (theo quy định của Bộ Tài chính), trong khi dịch vụ thông qua nền tảng số/thương mại điện tử ứng dụng gọi xe, giao hàng, đặt phòng khách sạn cho khách hàng doanh nghiệp, hoặc dịch vụ vận tải hành khách cho tổ chức, doanh nghiệp nhưng không thuộc loại hình taxi (như đưa đón công nhân, học sinh bằng xe 16 - 45 chỗ; dịch vụ vận chuyển bằng xe hai bánh và bốn bánh cho khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức) lại không được áp dụng theo kỳ và phải xuất hóa đơn ngay sau khi hoàn tất giao dịch.
“Việc buộc phải xuất hóa đơn ngay sau từng giao dịch nhỏ lẻ (mỗi chuyến xe, mỗi đơn hàng) dẫn đến việc gia tăng đáng kể khối lượng xử lý thủ công cho cả bên bán và bên mua, đặc biệt khi bên mua là doanh nghiệp; tăng chi phí vận hành, lưu trữ, đồng thời tăng áp lực lên hệ thống hóa đơn điện tử quốc gia. Tất cả những điều này có thể gây lãng phí nguồn lực của cả bên bán, bên mua và cơ quan thuế một cách không cần thiết, đồng thời có thể gây ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp”, ông Phan Vũ Hoàng nhấn mạnh.
Ông Hoàng chia sẻ thực tiễn của các quốc gia áp dụng hóa đơn định kỳ hoặc hóa đơn gộp nhằm giảm thủ tục hành chính, phù hợp với thông lệ thanh toán. Chẳng hạn như EU cho phép phát hành hóa đơn tổng hợp (summary invoice) trong kỳ (thường theo tháng) theo Chỉ thị 2006/112/EC; Vương quốc Anh cho phép lập hóa đơn định kỳ cho continuous supplies (dịch vụ cung ứng liên tục); Malaysia cho phép hóa đơn điện tử hợp nhất theo tháng, nếu người mua không yêu cầu hóa đơn riêng lẻ; Singapore, thông qua hệ thống InvoiceNow (Peppol), hóa đơn gộp theo tháng được áp dụng phổ biến cho khách hàng doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó, ông Hoàng kiến nghị xem xét sửa đổi lại Điều 26 dự thảo Luật Quản lý thuế theo hướng quy định nguyên tắc về việc cho phép xuất hóa đơn theo kỳ như sau: “Hóa đơn điện tử được lập vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định, hoặc trong kỳ phát sinh nghĩa vụ thuế đối với trường hợp cung cấp hàng hóa, dịch vụ số lượng lớn, phát sinh thường xuyên, cần thời gian đối soát số liệu và các trường hợp đặc thù khác. Chính phủ quy định cụ thể việc thực hiện điều này”.
Bên cạnh đó, Phó chủ tịch VTCA cũng đề xuất tại Nghị định hướng dẫn, việc áp dụng hóa đơn theo kỳ sẽ được áp dụng trên nguyên tắc đối với tất cả các trường hợp số lượng giao dịch lớn, phát sinh thường xuyên, thay vì chỉ bao gồm một số trường hợp nhất định như quy định hiện hành, miễn là đáp ứng một số tiêu chí nhất định (như phục vụ đối tượng khách hàng doanh nghiệp, có cơ chế thanh toán định kỳ và có đối soát số liệu).
“Việc triển khai được cơ chế hóa đơn điện tử định kỳ này vừa phù hợp thực tiễn, vừa tăng hiệu quả hoạt động và giảm bớt yêu cầu về nguồn lực đối với các doanh nghiệp, giảm tải hệ thống tiếp nhận hóa đơn của cơ quan thuế. Đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số, cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp”, Phó tổng giám đốc Deloitte khẳng định.
Góp ý về xử phạt hóa đơn, ông Nguyễn Văn Phụng, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) cho rằng, hành vi trốn thuế luật đã quy định rất rõ, nhưng khi triển khai thực hiện lại có tình trạng diễn giải mở rộng, suy diễn, gây phức tạp. Đây chính là khâu tổ chức thực hiện cần xem xét.
Ông dẫn chứng, về hóa đơn chứng từ, khi sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để phục vụ hành vi trốn thuế thì mới được coi là vi phạm. Tuy nhiên có trường hợp doanh nghiệp dùng hóa đơn không hợp pháp cho chi tiêu nội bộ, hạch toán chi phí kế toán thì vẫn bị xử phạt theo quy định về hóa đơn. Ngoài ra, việc chậm phát hành hóa đơn cũng là hành vi vi phạm.
Theo ông Phụng một số quy định còn bất hợp lý. Ví dụ, hành vi chậm phát hành hóa đơn điện tử dù không làm thất thu thuế nhưng vẫn bị phạt nặng từ 4-6 triệu đồng. Ông Phụng bày tỏ, nếu doanh nghiệp chưa kịp phát hành hóa đơn nhưng vẫn ghi nhận giao dịch, không có hành vi trốn thuế thì cũng cần xem xét mức phạt phù hợp, “vừa phải” hơn.
Đối với hộ, cá nhân kinh doanh, Điều 13 về xử phạt khai thuế, ông Phụng kiến nghị cần được điều chỉnh theo hướng linh hoạt: để hộ kinh doanh khai bình thường, cuối năm nếu doanh thu dưới mức quy định thì miễn thuế, còn vượt mức thì nộp thuế. Cách làm này sẽ đồng bộ với thuế trong thương mại điện tử, nhất là khi Nghị định 117 đã cho phép các sàn thương mại điện tử kết nối, và hóa đơn điện tử đã được áp dụng tới từng hộ kinh doanh.
Nam Yên