Tăng thuế trong khung đối với hàng hóa gây tổn hại môi trường

05/28/2018 09:58:08 AM




Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Tờ trình dự án Nghị quyết về biểu thuế bảo vệ môi trường (BVMT) gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH).
Upload file:

Hàng hoá thuộc diện chịu thuế BVMT như xăng, dầu, mỡ nhờn,
Hàng hoá thuộc diện chịu thuế BVMT như xăng, dầu, mỡ nhờn, than đá, túi nilon… trong quá trình sử dụng gây tác động xấu đến môi trường.

 

Trong đó đã đề xuất điều chỉnh thuế BVMT đối với một số nhóm hàng, gồm xăng dầu, than đá, túi ni lông...

Để “trả lại” môi trường, thuế phải điều chỉnh cao hơn

Theo tờ trình, trên cơ sở nguyên tắc điều chỉnh mức thuế BVMT tại Luật Thuế BVMT, UBTVQH đã ban hành nghị quyết, trong đó quy định mức thuế cụ thể đối với các hàng hóa chịu thuế BVMT được quy định ở mức sàn trong khung thuế để tránh gây tác động lớn và đột ngột vào sản xuất kinh doanh. Riêng dung dịch HCFC và túi ni lông thuộc diện chịu thuế là những hàng hóa khi sử dụng có tác động lớn đến môi trường được quy định gần bằng mức trần trong khung thuế. Đến năm 2015, UBTVQH đã ban hành nghị quyết tiếp tục điều chỉnh một số mức thuế BVMT đối với mặt hàng xăng dầu trong khung thuế.

Biểu đồ thuế

Tờ trình của Chính phủ cũng nêu rõ, triển khai thực hiện quy định về mức thuế BVMT tại các nghị quyết của UBTVQH đã góp phần nâng cao trách nhiệm và nhận thức của xã hội đối với môi trường; khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường; qua đó đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường. Đồng thời, đảm bảo động viên hợp lý đóng góp của xã hội vào ngân sách nhà nước (NSNN) để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có nhiệm vụ chi cho BVMT. Theo thống kê, tổng số thu thuế BVMT giai đoạn 2012 - 2017 khoảng 150.810 tỷ đồng, bình quân khoảng 25.135 tỷ đồng/năm.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu điều chỉnh thuế BVMT lên mức phù hợp. Bởi, giá bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam cơ bản đang thấp hơn so với các nước có chung đường biên giới và một số nước trong khối ASEAN và châu Á. 

Cũng theo tờ trình, các nghiên cứu cho thấy hàng hoá thuộc diện chịu thuế BVMT như xăng, dầu, mỡ nhờn, than đá, túi nilon… trong quá trình sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Còn theo tính toán của các nhà khoa học, để trả lại môi trường thì thuế đối với các mặt hàng kể trên phải được điều chỉnh cao hơn rất nhiều. Trong khi đó, mức thuế BVMT đối với một số hàng hóa đang ở mức thấp so với mức độ tác động đến môi trường khi sử dụng của các hàng hóa này.

Trước đó, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo nghị quyết và lấy ý kiến rộng rãi trên Cổng thông điện tử Bộ Tài chính. Cụ thể, trong tổng số 77 ý kiến tham gia góp ý, có 19 ý kiến của các bộ, ngành, 43 ý kiến của các địa phương, 5 ý kiến của các hiệp hội và doanh nghiệp, tổ chức khác. Về cơ bản các ý kiến đều nhất trí với sự cần thiết và nội dung của dự thảo nghị quyết (47/77 ý kiến nhất trí hoàn toàn).

Điều chỉnh hành vi để bảo vệ môi trường

Tại dự thảo nghị quyết, Chính phủ đề nghị điều chỉnh mức thuế BVMT đối với xăng dầu như sau: Xăng đề nghị tăng từ 3.000 đồng/lít lên mức trần 4.000 đồng/lít, tăng 1.000 đồng/lít. Dầu diesel đề nghị tăng từ 1.500 đồng/lít lên mức trần 2.000 đồng/lít, tăng 500 đồng/lít. Dầu mazut, dầu nhờn đề nghị tăng từ 900 đồng/lít lên mức trần 2.000 đồng/lít, tăng 1.100 đồng/lít. Mỡ nhờn đề nghị tăng từ 900 đồng/kg lên mức trần 2.000 đồng/kg, tăng 1.100 đồng/kg. Dầu hỏa đề nghị tăng từ 300 đồng/lít lên mức trần 2.000 đồng/lít, tăng 1.700 đồng/lít.

Đối với than đá đề nghị điều chỉnh mức thuế BVMT như sau: Than antraxit đề nghị tăng từ 20.000 đồng/tấn lên 30.000 đồng/tấn, tăng 10.000 đồng/tấn. Than nâu, than mỡ, than đá khác đề nghị tăng từ 10.000 đồng/tấn lên 15.000 đồng/tấn, tăng 5.000 đồng/tấn.

Với dung dịch HCFC, bao gồm cả dung dịch HCFC có trong hỗn hợp chứa dung dịch HCFC đề nghị tăng từ 4.000 đồng/kg lên mức trần 5.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg. Đối với túi ni lông thuộc diện chịu thuế đề nghị tăng từ 40.000 đồng/kg lên mức trần 50.000 đồng/kg, tăng 10.000 đồng/kg.

Đối với một số vướng mắc phát sinh về thuế BVMT đối với mặt hàng than cốc và dầu tái sinh, do còn ý kiến khác nhau, nên tại tờ trình, Chính phủ  trình UBTVQH xem xét, quyết định: Than cốc, dầu tái sinh không thuộc đối tượng chịu thuế BVMT theo Luật Thuế BVMT; số tiền thuế BVMT đã nộp đối với than cốc, dầu tái sinh (nếu có) kể từ thời điểm Luật Thuế BVMT có hiệu lực thi hành được xác định là số tiền thuế nộp thừa và thực hiện xử lý theo quy định của pháp luật về quản lý thuế; giao Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn (hoặc giao Bộ Tài chính hướng dẫn) 2 nội dung nêu trên.

Với phương án đề xuất điều chỉnh nêu trên, Chính phủ tính toán tổng số thu thuế BVMT dự kiến là khoảng 57.612,0 tỷ đồng/năm, tăng khoảng 15.189,2 tỷ đồng/năm. Từ đó sẽ góp phần tạo thêm nguồn thu để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, trong đó có các nhiệm vụ chi cho BVMT.

Cân nhắc đến việc tăng thuế tác động lên CPI, theo tờ trình của Chính phủ, với phương án điều chỉnh mức thuế BVMT nêu trên thì việc điều chỉnh mức thuế BVMT sẽ tác động đến CPI bình quân năm 2018 là khoảng 0,11 - 0,15%. “Tuy nhiên, việc tăng thuế BVMT sẽ khuyến khích sử dụng năng lượng, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả; góp phần khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường (như xăng E5, xăng E10, dầu diesel B5, dầu diesel B10, túi ni lông thân thiện với môi trường). Từ đó, sẽ giảm phát thải ô nhiễm môi trường, đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường và thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT”, tờ trình của Chính phủ nêu rõ. 


* Ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn, Tổng cục Thuế:

Không thể để giá xăng dầu quá thấp

 Ông Nguyễn Văn Phụng
 Ông Nguyễn Văn Phụng

Thu thuế BVMT là một trong những công cụ tài chính để xử lý, khắc phục những tổn hại về môi trường. Chúng ta phải nhìn nhận rằng, thuế BVMT là thuế gián thu, khi áp thuế cao thì đương nhiên giá cả có biến động. Nhưng theo tôi sự biến động này là cần thiết, vì chúng ta phải tính toán tương quan về giá giữa các nước trong khu vực.

Hiện nay, giá bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam cơ bản đang thấp hơn so với các nước có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN và châu Á nói chung. Chúng ta lo an ninh năng lượng đất nước, nhưng không thể “cáng” cho cả hàng xóm được. Cho nên nếu để giá quá thấp, sẽ “chảy máu” xăng dầu sang các nước khác. Trong khi đây là nguồn thu quan trọng và chúng ta không thể từ bỏ quyền lợi của mình được.

Vì vậy cần phải xem xét tương quan về giá xăng dầu để đảm bảo chúng ta không bị hao tổn nguồn lực khi phải bù lỗ cho các nước trong khu vực. Đây là lợi ích quốc gia chúng ta phải tính đến. Trong lợi ích quốc gia có lợi ích của Nhà nước và người dân. Theo tôi, trước mắt việc tăng thuế giá xăng sẽ có biến động. Tuy nhiên, nếu có tăng giá xăng cũng không ảnh hưởng nhiều đến cơ cấu giá thành sản phẩm, bởi xăng dầu chỉ là một yếu tố trong nhiều yếu tố quyết định giá thành các sản phẩm, dịch vụ có liên quan. Nếu DN sử dụng phương tiện hợp lý thì sẽ không có đột biến.


* PGS. TS Lê Xuân Trường, Học viện Tài chính:

Phải thực hiện phương châm “người gây ô nhiễm phải trả tiền”

 TS Lê Xuân Trường
 Ông Lê Xuân Trường

Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, chi ngân sách cho BVMT trong giai đoạn 2012 – 2017 đã đạt khoảng 2% tổng chi NSNN. Có thể khẳng định, chính sách tài chính về BVMT đã cụ thể hóa tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về BVMT.

Đối với chính sách về thuế BVMT, nên mở rộng đối tượng chịu thuế như pin, ắc quy, một số hóa chất tẩy rửa công nghiệp và các loại thuốc bảo quản thực vật thuộc loại hạn chế sử dụng, bởi đây là những mặt hàng mà quá trình sản xuất, sử dụng hoặc khi kết thúc quá trình sử dụng thải ra gây ô nhiễm môi trường. Việc đưa vào diện chịu thuế BVMT đối với một số hàng hóa là để thực hiện đúng phương châm chính sách “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.

Về điều chỉnh mức thuế, mặc dù xăng dầu là mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, song là nguồn năng lượng không tái tạo và quá trình sử dụng gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng, nên phải quy định mức thu đủ lớn sao cho các nhà sản xuất phương tiện vận tải phải chú ý nhiều hơn đến mục tiêu tiết kiệm nhiên liệu. Cùng với đó, người tiêu dùng phải luôn thường trực ý thức sử dụng tiết kiệm nhiên liệu hóa thạch và tăng cường sử dụng phương tiện vận tải công cộng khi có điều kiện phù hợp. Làm như vậy, không chỉ tiết kiệm chi tiêu cá nhân, mà còn góp phần cùng Nhà nước và toàn xã hội chung tay bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống.


* Ông Đặng Văn Thanh, Chủ tịch Hội Kế toán - Kiểm toán Việt Nam:

Thuế làm thay đổi hành vi của con người tới môi trường

 Ông Đặng Văn Thanh
 Ông Đặng Văn Thanh

Để đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững, BVMT trở nên hết sức cấp thiết. Tôi ủng hộ việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống thuế nhà nước. Việc điều chỉnh thuế BVMT là cần thiết, không chỉ đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, đáp ứng nhu cầu chi trong đó có chi cho BVMT, mà quan trọng hơn là đảm bảo tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Chúng ta đã lựa chọn tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững, đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng, nên cần phải quan tâm đến phát triển bền vững, tăng chất lượng môi trường sống. Chính vì thế cần điều chỉnh hành vi của người sản xuất, người tiêu dùng, hạn chế tối đa việc gây tổn hại môi trường.

Tăng thuế chắc chắn sẽ tác động đến người tiêu dùng, đặc biệt là các sắc thuế gián thu. Nhưng tôi tin người dân Việt Nam sẵn sàng đóng góp cho Nhà nước, sẵn sàng chấp nhận bỏ thêm khoản chi phí, đảm bảo tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển bền vững. Người dân, các nhà sản xuất đóng góp cho NSNN để có nguồn chi bảo vệ môi trường, khắc phục và hạn chế các tổn hại về môi trường...

Đề xuất tăng thuế để khuyến khích người dân và DN hướng đến sử dụng công nghệ xanh, sạch, dịch vụ hàng hóa thân thiện với môi trường, đặc biệt khi nền kinh tế tăng trưởng nóng, tài nguyên bị khai thác quá mức, môi trường bị tổn hại nghiêm trọng. Phát triển mạnh về kinh tế luôn mâu thuẫn với BVMT, vì vậy cần đảm bảo sự hài hòa và tuân thủ nguyên tắc trả giá và nâng cao trách nhiệm vật chất đối với môi trường. Vì thế, công cụ thuế sẽ góp phần thay đổi hành vi của người sản xuất kinh doanh, người dân đối với tài nguyên, với thiên nhiên và môi trường sống.


* Ông Trần Quang Chiểu, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Tài chính ngân sách của Quốc hội:

Tăng thuế để khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả

 Ông Trần Quang Chiểu
 Ông Trần Quang Chiểu

Việc tăng mức thuế BVMT đối với hàng hóa có thể tác động đến giá bán. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tăng thuế BVMT đối với xăng dầu theo tôi không làm giá bán lẻ xăng dầu trong nước cao hơn giá bán lẻ xăng dầu khu vực và thế giới. Điều quan trọng hơn là việc điều chỉnh sẽ khuyến khích sử dụng năng lượng, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả; góp phần khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường như xăng E5, túi ni lông thân thiện với môi trường… Từ đó, sẽ giảm phát thải ô nhiễm môi trường, góp phần vào thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT. Đây cũng là động lực giúp các doanh nghiệp (DN) tìm giải pháp công nghệ để sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, giảm sự phụ thuộc vào sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Đối với những DN ở lĩnh vực buộc phải sử dụng xăng dầu nên tìm cách tối ưu hóa sản xuất, sử dụng tiết kiệm nhiên liệu, sử dụng xăng sinh học để được hưởng ưu đãi về thuế.

Thực tế tại Việt Nam những năm vừa qua, tăng trưởng kinh tế cao đi kèm theo mức độ gây ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng, do nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên mà chưa dựa vào phát triển ứng dụng công nghệ cao. Theo tính toán, tổn thất do ô nhiễm môi trường lên tới 5,5% GDP. Vì vậy, giảm ô nhiễm môi trường cũng góp phần làm tăng hiệu quả nền kinh tế. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc sử dụng công cụ thuế môi trường, một công cụ dựa vào thị trường để thay đổi ưu tiên của người tiêu dùng là một phương thức hiệu quả, nhằm kích thích đầu tư theo hướng tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.


* Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam: 

Mức điều chỉnh tăng thuế BVMT là phù hợp 

 Bà Cúc
 Bà Nguyễn Thị Cúc

Việc điều chỉnh thuế bảo vệ môi trường (BVMT) đối với xăng từ 3.000 đồng/lít lên 4.000 đồng/lít là không lớn, phù hợp trong bối cảnh nhiều sắc thuế giảm. Trước đây thuế xăng dầu rất cao, thông thường khoảng 40%, bây giờ là 10 - 20% tùy từng thị trường. Trong khi đó, giá xăng dầu của Việt Nam hiện nay so với giá bình quân các nước chung đường biên giới như: Lào, Campuchia, Trung Quốc… vẫn thấp hơn. Điều này có thể khiến tình trạng xăng dầu nhập lậu tăng hơn, gây thất thu thuế cũng như xảy ra tình trạng mua bán hóa đơn bất hợp pháp để hợp thức hóa xăng dầu nhập lậu. 

Do đó, tôi đồng tình với việc điều chỉnh tăng thuế BVMT đối với xăng dầu. Bên cạnh việc điều chỉnh thuế xăng dầu, Nhà nước cũng nên tăng cường quản lý xăng dầu nhập lậu. Đối với các sản phẩm khác, như túi nilon, tôi nghĩ rằng, mức điều chỉnh tăng như hiện nay là phù hợp, vì hiện nay trên thực tế mức thuế BVMT đối với túi nilon hiện hành là 40.000 đồng/kg. Các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, hộ kinh doanh làm ra túi nilong không đảm bảo an toàn, gây nguy hiểm cho người tiêu dùng, nhưng giá bán trên thị trường hiện nay chỉ 30.000 đồng/kg trong khi thuế thu 40.000 đồng/kg, điều đó cho thấy các sản phẩm đó đang có sự gian lận, trốn thuế. 

Tất nhiên, khi điều chỉnh thuế BVMT như vậy sẽ có những tác động đến túi tiền của người tiêu dùng, đến giá thành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, khi điều chỉnh tăng thuế BVMT chúng ta đã có tính toán, chẳng hạn như chỉ tăng ở mức 1.000 đồng/lít xăng. Hơn nữa, cùng với lộ trình giảm thuế nhập khẩu thì bản thân giá thành sản phẩm xăng dầu cũng đã được giảm tương ứng nên mức tác động sẽ không lớn.

 

Theo Thời báo Tài chính