Cục Thuế TP. Hà Nội cho biết, căn cứ theo Điều 15, Thông tư số 219/2013/TT-BTC (được sửa đổi tại Thông tư 119/2014/TT-BTC, Thông tư 151/2014/TT-BTC, Thông tư 26/2015/TT-BTC, Thông tư 173/2016/TT-BTC), điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào khi có đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, có hóa đơn GTGT hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
Thứ hai, có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ 20 triệu đồng trở lên, trừ các trường hợp giá trị hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từng lần có giá trị dưới 20 triệu đồng, hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới 20 triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT và trường hợp cơ sở kinh doanh nhập khẩu hàng hóa là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.
Trong đó, chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt gồm chứng từ thanh toán qua ngân hàng và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt khác hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều 15, Thông tư số 219/2013/TT-BTC.
Thứ ba, chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành như séc, ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi, ủy nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại (ví điện tử) và các hình thức thanh toán khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua sang tài khoản bên bán mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân sang tài khoản bên bán).
Đồng thời, Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 6/8/2014 của Bộ Tài chính quy định, đối tượng áp dụng thực hiện nghĩa vụ thuế là tổ chức nước ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài kinh doanh là đối tượng cư trú tại Việt Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng, thỏa thuận, hoặc cam kết giữa Nhà thầu nước ngoài với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc giữa Nhà thầu nước ngoài với Nhà thầu phụ nước ngoài để thực hiện một phần công việc của Hợp đồng nhà thầu.
Theo quy định tại Điều 4, Thông tư số 96/2015/TT-BTC sửa đổi Điều 6, Thông tư số 78/2014/TT-BTC về các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, doanh nghiệp được trừ mọi khoản chi (trừ các khoản chi không được trừ theo quy định) nếu đáp ứng đủ các điều kiện: khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; khoản chi có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của pháp luật; khoản chi nếu có hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên (giá đã bao gồm thuế GTGT) khi thanh toán phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt. Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật về thuế GTGT.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, trường hợp công ty có phát sinh dịch vụ quảng cáo trực tuyến trên Facebook, Google nếu khoản chi này đáp ứng đủ các điều kiện thực tế liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty, có tờ khai và chứng từ nộp thuế nhà thầu nước ngoài theo quy định của các văn bản pháp luật về thuế GTGT thì được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trường hợp công ty có ủy quyền cho cá nhân là người lao động trong công ty sử dụng thẻ tín dụng của cá nhân để thanh toán tiền dịch vụ nêu trên, sau đó công ty thanh toán cho cá nhân thông qua hình thức chuyển khoản ngân hàng từ tài khoản của công ty vào tài khoản của cá nhân (thẻ tín dụng do công ty mở cho cá nhân tại Ngân hàng) và hình thức thanh toán này được được quy định cụ thể tại Quy chế tài chính hoặc Quyết định về việc ủy quyền của công ty cho cá nhân thì cũng được coi là chứng thanh toán không dùng tiền mặt theo quy định tại Điều 1 Thông tư số 173/2016/TT-BTC.